Nghiện chất dạng thuốc phiện là gì? Các công bố khoa học về Nghiện chất dạng thuốc phiện

Nghiện chất dạng thuốc phiện là tình trạng phụ thuộc và cường điệu hoá đối với các chất có nguồn gốc từ thuốc phiện, bao gồm các loại thuốc như opium, morfine, ...

Nghiện chất dạng thuốc phiện là tình trạng phụ thuộc và cường điệu hoá đối với các chất có nguồn gốc từ thuốc phiện, bao gồm các loại thuốc như opium, morfine, heroin, và các dẫn xuất thuốc phiện khác. Nghiện chất dạng thuốc phiện khiến người dùng có những triệu chứng thể xác và tâm lý nghiện, và điều này gây hại đến sức khỏe và cuộc sống của họ.
Nghiện chất dạng thuốc phiện là một loại nghiện chất có nguồn gốc từ alkaloid thu được từ cây thuốc phiện (Papaver somniferum). Các loại chất dạng thuốc phiện chủ yếu là opium, morphine, heroin và các dẫn xuất khác từ thuốc phiện.

Khi sử dụng các loại thuốc dạng này, cơ thể sẽ trở nên dựa dẫm vào các thành phần hoá học, gây ra sự sợ hãi, bất an, khó chịu khi không sử dụng chất này. Người bị nghiện chất dạng thuốc phiện cần ngày càng lượng lớn hơn các chất này để đạt được cảm giác thoải mái và theo thời gian, sự phụ thuộc đã kéo dài và người dùng sẽ trở nên khó lòng kiểm soát sự sử dụng của mình.

Nghiện chất dạng thuốc phiện gây hại cho sức khỏe và ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của người nghiện. Một số tác động sức khỏe có thể gồm cảm giác mệt mỏi, giảm chức năng miễn dịch, rối loạn tiêu hóa, giảm ham muốn tình dục, tổn thương các cơ quan nội tạng như gan, thận, phổi và não. Nghiện chất dạng thuốc phiện cũng có thể gây ra các vấn đề tâm lý như lo lắng, sự bi quan, giảm khả năng tập trung và suy nghĩ, rối loạn tâm thần và tiềm tàng nguy cơ tự tử.

Việc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện thông thường liên quan đến một quá trình dự phòng cai nghiện và hỗ trợ tâm lý. Điều này có thể bao gồm các phương pháp như cai nghiện dẫn dắt, chất thay thế và phác đồ điều trị tâm lý. Tuy nhiên, việc từ bỏ nghiện thuốc phiện là một quá trình khó khăn và nguy hiểm, và yêu cầu sự hỗ trợ và giám sát chuyên nghiệp.
Nghiện chất dạng thuốc phiện là một loại nghiện chất cực kỳ nghiêm trọng và có khả năng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến sức khỏe và cuộc sống của người bị nghiện. Dưới đây là một số thông tin chi tiết về nghiện chất dạng thuốc phiện:

1. Chất dạng thuốc phiện có nguồn gốc từ cây thuốc phiện (Papaver somniferum), một loại cây có hoa đặc biệt. Dịch chiết từ cây này chứa các alkaloid gồm morphine và codeine, là tác nhân gây nghiện chính trong chất dạng thuốc phiện.

2. Opium là một dạng chất dạng thuốc phiện tự nhiên, thu được từ tinh dầu của cây thuốc phiện. Nó được sử dụng rộng rãi để sản xuất các dạng thuốc dựa trên thuốc phiện và là một tác nhân gây nghiện mạnh mẽ.

3. Morphin là một dạng thuốc phiện thuần túy và là thành phần chính trong opium. Nó được sử dụng để giảm đau mạnh mẽ, nhưng cũng có khả năng gây nghiện nếu sử dụng không đúng liều lượng và thời gian.

4. Heroin là một dẫn xuất tổng hợp của morphine và được tạo ra để tăng cường hiệu quả gây nghiện. Heroin có tác động nhanh hơn và mạnh hơn, nhưng cũng gây ra nhiều hậu quả khủng khiếp và nguy hiểm.

5. Nghiện chất dạng thuốc phiện gây ra nhiều hệ lụy sức khỏe, bao gồm sự suy yếu toàn diện của cơ thể, suy giảm chức năng miễn dịch, suy giảm tình dục, rối loạn nội tiết, tổn thương cơ quan nội tạng và hệ thần kinh, giảm trí nhớ và khả năng tư duy, và có nguy cơ cao mắc các bệnh nhiễm trùng và bệnh truyền nhiễm.

6. Nghiện chất dạng thuốc phiện có tác động tiêu cực đến cuộc sống hàng ngày, như khiến người bị nghiện mất khả năng làm việc, rối loạn quan hệ tình dục và gia đình, gây ra tài chính và pháp lý, và có thể dẫn đến tai nạn và chấn thương.

7. Điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện thường kết hợp nhiều phương pháp, bao gồm cai nghiện, chất thay thế như methadone hoặc buprenorphine, tư vấn và hỗ trợ tâm lý, và quá trình hồi phục và hỗ trợ mãi mãi.

Nghiện chất dạng thuốc phiện là một vấn đề nghiêm trọng và cần được đối phó một cách có hiệu quả để đảm bảo sức khỏe và cuộc sống của những người bị nghiện được cải thiện.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nghiện chất dạng thuốc phiện":

Trầm cảm ở người bệnh điều trị Methadone và Buprenorphine tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam: tỷ lệ và các yếu tố liên quan
Nghiên cứu với mục tiêu xác định tỷ lệ hiện mắc trầm cảm và một số  yếu tố liên quan với trầm cảm ở bệnh nhân điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện (CDTP) bằng Methadone và Buprenorphine. Nghiên cứu mô tả cắt ngang tại 3 cơ sở điều trị nghiện CDTP ở 3 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là Lai Châu, Điện Biên và Sơn La, trên 344 bệnh nhân khởi liều từ tháng 3 đến tháng 12 năm 2019. Số liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi phỏng vấn hành vi nguy cơ, và thang sàng lọc trầm cảm PHQ-2. Tỷ lệ trầm cảm (điểm PHQ 2 ≥ 2) chung là 7,3%, nhóm người bệnh Methadone 1,7%, nhóm người bệnh Buprenorphine 10,2% (p < 0,05). Các yếu tố liên quan đến trầm cảm: điều trị bằng Buprenorphine (p = 0,019). Nghiên cứu đã cho thấy một tỷ lệ tương đối của trầm cảm ở những bệnh nhân điều trị nghiện CDTP, điều này gợi ý cần có các dịch vụ hỗ trợ phù hợp để có thể nâng cao hiệu quả của chương trình điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế tại Việt Nam.
#Methadone #Buprenorphine #trầm cảm #điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện
4. Đa hình nucleotid đơn gen oprd1 trong điều trị methadone thay thế ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện
Nghiên cứu thực hiện phân tích phân bố kiểu gen OPRD1 tại vị trí đa hình nucleotid đơn rs2234918, rs581111, rs529520 và đánh giá mối tương quan với liều duy trì methadone trong liệu pháp điều trị thay thế methadone ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện tại tỉnh Ninh Bình. Nghiên cứu thực hiện trên 400 bệnh nhân được chẩn đoán phụ thuộc vào các chất dạng thuốc phiện, được điều trị Methadone thay thế từ tháng 3 năm 2021 đến tháng 5 năm 2022 tại tỉnh Ninh Bình. Đa hình nucleotid đơn gen OPRD1 được xác định bằng phương pháp PCR và giải trình tự gen kết quả cho thấy: đa hình nucleotid đơn rs2234918 có tỉ lệ Alen T và C lần lượt là: 69,38% và 30,62%; các kiểu gen tương ứng là TT (48,5%), CT (41,75%), CC (9,75%). Đa hình nucleotid đơn rs581111 có tỉ lệ Alen G và A lần lượt là: 88,62% và 11,38%; các kiểu gen tương ứng là AA (1,75%), AG (19,25%), GG (79%). Đa hình nucleotid đơn rs529520 có tỉ lệ Alen A và C lần lượt là: 15,38% và 84,62%; các kiểu gen tương ứng là AA (3,75%), AC (23,25), CC (73%). Người nghiện chất dạng thuốc phiện mang alen C của SNP rs2234918 có khả năng sử dụng liều duy trì methadone cao (≥ 90mg/ngày), cao hơn so với người không có Alen C với OR = 1,556 (95%CI: 1,049-2,309), người có kiểu gen TT có khả năng sử dụng liều duy trì methadone cao (≥ 90mg/ngày), thấp hơn so với người không có kiểu gen TT với OR = 0,643 (95%CI: 0,433-0,953). Việc xác định kiểu gen của gen OPRD1 ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện điều trị methadone thay thế có thể giúp cá thể hóa điều trị.
#Nghiện chất dạng thuốc phiện #methadone #cá thể hóa điều trị #gen OPRD1 #SNP rs2234918 #SNP rs529520 #SNP rs581111
TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ ARV TRÊN BỆNH NHÂN HIV CÓĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG BUPRENOPHINE/NALOXONE Ở HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV và một số yếu tố liên quan trên nhóm bệnh nhân điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện (CDTP) và điều trị ARV. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp không có nhóm chứng tại 4 cơ sở điều trị HIV ngoại trú tại Hà Nội từ năm 2016 đến 2019. Tuyển chọn được 136 đối tượng tham gia và theo dõi trong vòng 12 tháng. Tuân thủ điều trị ARV được đo lường bằng thang đoVAS. Phân tích hỗn hợp (mixed-effect model) để xác định các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị ARV. Kết quả: 96,3% người tham gia là nam giới với độ tuổi trung bình là 38±5,8 tuổi, 43% có việc làm, 53,7% có thời gian sử dụng ma túy trên 10 năm và CD4 trung bình là 411±216TB/mm3.Tự ước tính từ 90% trở lên uống thuốc ARV đúng giờ trong vòng 7 ngày qua qua là 80,6% tại thời điểm ban đầu, 87% tại thời điểm 6 tháng và 79,4% tại thời điểm 12 tháng. Các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị cho thấy dương tính với morphine (OR=0.24; 95% KTC: 0.06-0.90), tải lượng vi rút HIV ≥ 200 bản sao/mL (OR=0.07; 95% KTC: 0.02-0.28) vàtình trạng điều trị ARV sau khi tham gia nghiên cứu (OR=0,28; 95%KTC: 0,08 – 0,96)thì tuân thủ điều trị ARV kém hơn. Kết luận: Tỷ lệ đạt ngưỡng tuân thủ điều trị ARV tương đối tốt sau 12 tháng theo dõi trong nhóm bệnh nhân nhận điều trị lồng ghép ARV và điều trị nghiện CDTP bằng buprenorphine.
#tuân thủ điều trị ARV #lồng ghép điều trị nghiện chất và điều trị HIV
MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐA HÌNH ĐƠN GEN ABCB1 VỚI LIỀU ĐIỀU TRỊ METHADONE THAY THẾ Ở BỆNH NHÂN NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
Methadone là thuốc giảm đau thuộc nhóm opioid được sử dụng để điều trị bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện. Tuy nhiên, xác định liều methadone còn khó khăn do có sự khác biệt lớn về đáp ứng điều trị giữa các cá thể. Methadone được vận chuyển vào trong tế bào bởi protein P-glycoprotein (P-pg), được mã hóa bởi gen ABCB1 (MRD1). Gen này được đánh giá có tính đa hình cao với nhiều biến thể di truyền. Các biến thể di truyền này đã được chứng minh có ảnh hưởng tới biểu hiện của P-glycoprotein, do đó ảnh hưởng tới chuyển hóa methadone. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định đa hình nucleotid đơn 1236C>T (dbSNP rs1128503), 2677G>T/A (dbSNP rs2032582), và 3435C>T (dbSNP rs1045642) của gen ABCB1 ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện điều trị methadone thay thế và đánh giá mối liên quan với liều điều trị duy trì. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 400 bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện đang điều trị methadone được xác định các đa hình nucleotid đơn bằng phương pháp giải trình tự gen Sanger. Kết quả: Các cá thể mang biến thể T của đa hình nucleotid đơn 3435C>T (dbSNP rs1045642) yêu cầu điều trị nhóm liều cao (≥ 90 mg/ngày) cao hơn các cá thể không mang biến thể này 1.556 lần (p=0.032). Kết luận: Có sự liên quan giữa biến thể di truyền gen ABCB1 và liều điều trị methadone thay thế. Việc xác định kiểu gen của gen ABCB1 ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện điều trị methadone thay thế có thể giúp cá thể hóa điều trị.
#Nghiện chất dạng thuốc phiện #methadone #cá thể hóa điều trị #gen ABCB1
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG THUỐC BUPRENORPHINE VÀ METHADONE TẠI BA TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NĂM 2019
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 1 - 2021
Bài viết này được thực hiện nhằm mô tả đặc điểm bệnh nhân tham gia điều trị bằng thuốc thay thế tại ba tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam vào năm 2019 bao gồm: Điện Biên, Sơn La và Lai Châu. Thông tin nghiên cứu được lấy thông qua phỏng vấn bệnh nhân trực tiếp tại các cơ sở cấp phát thuốc. Kết quả cho thấy bệnh nhân tham gia điều trị tại 3 tỉnh chủ yếu là nam giới độ tuổi lao động. 70% đối tượng là người thuộc các dân tộc thiểu số như Thái, La Hủ, Mông,... 25.5% bệnh nhân chưa từng được đi học hoặc không biết chữ. Nghề nghiệp chủ yếu là làm ruộng (48.8%). Heroin và thuốc phiện là hai chất được sử dụng nhiều nhất. Bệnh nhân sử dụng heroin có độ tuổi trung bình là 26.21 tuổi. Hành vi sử dụng chất trong 3 tháng trước điều trị chủ yếu là hút và tiêm truyền tĩnh mạch. Có tổng cộng 26 bệnh nhân nhiễm HIV trên tổng số 404 người đang điều trị.
#Đặc điểm #nghiện chất dạng thuốc phiện #buprenorphine #methadone #2019
23. Yếu tố liên quan đến ngừng điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenorphine tại ba tỉnh miền núi phía Bắc, Việt Nam
Sử dụng thiết kế nghiên cứu thuần tập, nghiên cứu mô tả yếu tố nguy cơ của ngừng điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng buprenorphine. Đối tượng nghiên cứu gồm 130 bệnh nhân điều trị buprenorphine tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc, Việt Nam. Tiêu chuẩn lựa chọn: từ 16 tuổi trở lên, khởi liều buprenorphine trong giai đoạn từ tháng 9/2019 - 12/2019, và đồng ý tham gia nghiên cứu. Nguồn dữ liệu gồm trích lục bệnh án hàng tháng từ khi khởi liều đến hết tháng 12/2020 và phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi cấu trúc tại hai mốc thời gian: tháng 6/2020 và 9/2020. Kết quả cho thấy tỷ lệ ngừng điều trị buprenorphine cộng dồn ở mốc 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng sau khi bắt đầu điều trị tương ứng là 11,5%, 21,5% và 26,2%. Tuổi cao (aOR = 0,9; 95%CI: 0,87 - 0,97), nhận được nhiều lần tư vấn tại phòng khám điều trị (aOR = 0,25; 95%CI: 0,12 - 0,52) là các yếu tố làm giảm nguy cơ bỏ điều trị buprenorphine. Trong khi đó, nữ giới có nguy cơ ngừng điều trị cao hơn nam giới (aOR = 4,2; 95%CI: 1,06 - 16,69). Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động tư vấn tại phòng khám trong việc duy trì bệnh nhân điều trị nghiện chất. Cần thêm các nghiên cứu tìm hiểu yếu tố nguy cơ của bỏ trị và cải thiện tỷ lệ duy trì điều trị nghiện chất bằng buprenorphine.
#điều trị nghiện #buprenorphine #bỏ trị #ngừng điều trị
Tổng số: 6   
  • 1